Việt Nam dẫn đầu con đường theo đuổi năng lượng sạch trắc trở của Đông Nam Á


Phần lớn tốc độ chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, khử carbon của Đông Nam Á mới chỉ tập trung ở Việt Nam và tiếp đó là Thái Lan, bất chấp việc khu vực là một trong những nơi dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu toàn cầu.

Công nhân Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đưa điện mặt trời thắp sáng nơi đảo xa. Ảnh: Kinhtedothi.vn

Đa dạng các tiềm năng

Theo báo cáo mới nhất của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), Đông Nam Á đang phải đối mặt với mực nước biển dâng cao, sóng nhiệt, bão lớn - những vấn đề nghiêm trọng nhất của biến đổi khí hậu - cùng với sự suy giảm dòng chảy của sông do xây dựng hồ chứa và khai thác thủy điện.

Thông qua Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các kế hoạch quốc gia và khu vực đã được ra đời nhằm hạn chế sự gia tăng lượng khí thải carbon bằng cách chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo, thay cho các nguồn nhiên liệu hóa thạch truyền thống.

Trong khi con đường dẫn đến quá trình khử cacbon năng lượng liên quan đến nhiều công nghệ khác nhau, năng lượng tái tạo đã trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng nhất trong những năm gần đây, khi chi phí lắp đặt đã giảm đáng kể trong thập kỷ qua - 80% đối với hệ thống quang điện mặt trời quy mô lớn và 40% đối với gió trên đất liền các trang trại.

Tuy nhiên, dù giá đã giảm mạnh, chi phí xây dựng các hệ thống sử dụng năng lượng điện và gió ở Đông Nam Á vẫn cao hơn so với nhiều khu vực khác, do hạn chế về phát triển dự án, chuỗi cung ứng yếu và rủi ro dự án. Các công nghệ năng lượng địa nhiệt đã hoàn thiện, nhưng chi phí thay đổi rất nhiều theo vị trí, ngay cả ở những khu vực có tiềm năng cao như Indonesia và Philippines.

Ngoài ra, năng lượng sinh học cũng là một công nghệ sạch đầy hứa hẹn khác, nhờ nguồn cung dồi dào các sinh khối bền vững, như phụ phẩm cây trồng, tại Đông Nam Á. Thái Lan là nước dẫn đầu khu vực về sinh khối để phát điện, trong khi Indonesia dẫn đầu về sản xuất nhiên liệu sinh học lỏng. Tiềm năng về năng lượng địa nhiệt - thường thuận lợi ở những nơi có núi lửa - cũng đã bắt đầu được khai thác ở Philippines và Indonesia.

CNA dẫn lời chuyên gia Philip Andrews-Speed tại Viện Nghiên cứu Năng lượng, Đại học Quốc gia Singapore, cho biết, tất cả các dạng năng lượng kể trên có thể cung cấp các giải pháp không cần nối lưới điện cho các đảo và các cộng đồng xa xôi khác.

Với sự sẵn có của các nguồn năng lượng tái tạo này trên khắp Đông Nam Á, công suất lắp đặt sản xuất điện tái tạo không dùng thủy điện trong khu vực đã tăng gần 5 lần kể từ năm 2011.

Tuy nhiên, hơn 50% mức tăng trưởng này là ở Việt Nam, chủ yếu là năng lượng mặt trời và 25% khác ở Thái Lan, liên quan đến năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học, chủ yếu đến từ nỗ lực phối hợp của các chính phủ trong việc phát triển năng lượng tái tạo. Hành động của 8 quốc gia thành viên ASEAN khác được theo dõi vẫn còn tương đối ít.

Do đó, nhìn chung cả khu vực vẫn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. Than và khí đốt tự nhiên hiện chiếm gần 75% điện năng của khu vực. Thủy điện chiếm 20% khác và các dạng năng lượng tái tạo chỉ cung cấp 5%.

Triển vọng Năng lượng ASEAN mới nhất, do Trung tâm Năng lượng ASEAN đưa ra vào tháng 11/2020, dự đoán rằng mức tiêu thụ năng lượng trong khu vực có thể tăng gấp đôi từ nay đến năm 2040. Và điều này có thể vẫn đồng nghĩa với việc tăng gấp đôi sử dụng nhiên liệu hóa thạch nếu các quốc gia khu vực không có thêm các hành động triệt để.

Con đường trắc trở

Theo chuyên gia Philip Andrews-Speed, yếu tố địa lý là một trong những lý do khiến việc theo đuổi năng lượng sạch trở nên phân hóa trong khu vực và kém hiệu quả so với các khu vực có sự tương đồng trên thế giới.

Trong khi Đông Nam Á có khí hậu tương đối nóng trong nhiều hoặc cả năm, cường độ bức xạ mặt trời vẫn không bằng với các sa mạc ở Trung Đông, Bắc Phi hoặc miền tây Trung Quốc.

Nhìn chung, tiềm năng năng lượng mặt trời của khu vực tương tự như các khu vực phía Nam châu Âu, chẳng hạn như Italia và miền nam nước Pháp, nhưng vẫn là tốt hơn nhiều so với ở Đức - một quốc gia đã lắp đặt rất nhiều hệ thống điện mặt trời.

Năng lượng mặt trời chiếm khoảng 60% công suất lắp đặt điện tái tạo không dùng thủy điện của Đông Nam Á, nhưng các khu vực nhận được cường độ mặt trời mạnh nhất tập trung ở khu vực sông Mekong: Thái Lan, Myanmar, Campuchia và miền Nam Việt Nam.

Tuy nhiên, ông Philip lưu ý, ngay cả ở Việt Nam và Thái Lan - các quốc gia dẫn đầu lĩnh vực này của khu vực - năng lượng mặt trời vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong cơ cấu năng lượng của cả nước: Quang điện mặt trời chỉ đóng góp 4% sản lượng điện ở Việt Nam và 2,6% ở Thái Lan.

Trong khi đó, các khu vực nhiệt đới và xích đạo trên thế giới có xu hướng có tiềm năng tương đối thấp về năng lượng gió trên đất liền. Điều này dẫn đến việc năng lượng gió vẫn chỉ cung cấp tương đối ít điện năng ở một số nước Đông Nam Á, chủ yếu đạt được ở Thái Lan, và ở một mức độ thấp hơn là tại Việt Nam và Philippines - các khu vực ven biển của Biển Đông.

Nhưng hơn hết, chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Năng lượng tin rằng, chính sự thiếu quyết tâm của các Chính phủ trong khu vực là hạn chế lớn nhất đối với con đường khử carbon năng lượng của Đông Nam Á.

"Trong khi hầu hết các quốc gia Đông Nam Á có tiềm năng phát triển một hoặc nhiều nguồn năng lượng tái tạo không dùng thủy điện, ngoài Việt Nam và Thái Lan, hầu hết các nước đã không đưa ra được các chính sách ổn định để khuyến khích đầu tư của các tổ chức tư nhân trong lĩnh vực này", ông Philip Andrews-Speed đánh giá.

Các Chính phủ trong khu vực hầu như không bắt buộc các công ty điện lực quốc doanh của họ đầu tư vào công suất năng lượng tái tạo. Thay vào đó, họ tiếp tục trợ cấp cho việc xây dựng công suất phát điện dựa trên nhiên liệu hóa thạch. Ưu tiên này xuất phát từ vai trò lâu đời của nhiên liệu hóa thạch trong nền kinh tế các nước và kết quả là lợi ích của các nhóm công nghiệp hùng mạnh.

Hơn nữa, than đá vẫn được coi là rẻ hơn so với năng lượng tái tạo, mặc dù chi phí của loại năng lượng này đã giảm mạnh. Việc xây dựng một sự đồng thuận chính trị để thúc đẩy năng lượng tái tạo vấp phải sự phản đối mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia và khu vực trên thế giới, không chỉ riêng tại Đông Nam Á.

Liên quan đến vấn đề này, chuyên gia Philip lưu ý rằng việc phát triển năng lượng tái tạo là một lựa chọn hấp dẫn đối với các quốc gia thiếu nguồn nhiên liệu hóa thạch dồi dào như Thái Lan và Việt Nam.

Cuối cùng, những rủi ro kinh tế từ việc đầu tư vào năng lượng tái tạo được cho vẫn tồn tại, cũng là vấn đề khiến các quốc gia do dự. Mặc dù rất quan trọng đối với quá trình chuyển đổi carbon thấp, nhưng bản thân việc tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo sẽ không đủ đáp ứng được nhu cầu năng lượng của quốc gia. Bài học này đã và đang được chỉ ra tại Anh, Trung Quốc... - các quốc gia đang đối mặt với cuộc khủng hoảng thiếu năng lượng chưa từng có trong những tuần qua.

Theo Philip, hệ thống lưới điện mạnh mẽ và linh hoạt được hỗ trợ bởi lưu trữ năng lượng vẫn là cần thiết để cân bằng các nguồn năng lượng tái tạo không liên tục như năng lượng mặt trời và gió.

Thậm chí một lưới điện truyền tải trong khu vực với hệ thống thương mại hỗ trợ có thể chuyển năng lượng sạch từ các khu vực thặng dư, chẳng hạn như Lào, sang các khu vực thâm hụt, chẳng hạn như Malaysia và Singapore. Trong một vài năm tới, năng lượng mặt trời từ Australia có thể bổ sung vào nguồn cung ở Đông Nam Á.

Hương Thảo - Kinh tế & Đô thị